Tập tính Nhàn mào

Sinh sản

T. b. cristata

Nhàn mào sinh sản tại nhiều sân chim, thường là cùng chỗ với các loài chim biển khác. Loài này sống theo cặp gồm một trống - một mái, và mối liên hệ giữa cặp đôi được duy trì suốt trong năm, thỉnh thoảng là trong nhiều kì sinh sản liên tục.[21] Kích thước của sân chim lệ thuộc vào lượng cá ở biển,[9] và sân chim lớn nhất từng được ghi nhận là tại vịnh Carpentaria thuộc miền bắc nước Úc với 13.000-15.000 cặp chim. Có lẽ các cơn lũ theo mùa vào mùa hè và sự gia tăng lượng dưỡng chất cung cấp cho vịnh do dòng sông mang lại đã giúp làm tăng lượng cá tại vùng này.[22] Nhàn mào không trung thành với nơi chúng sinh ra mà thường xuyên thay đổi nơi sinh sản từ năm này đến năm khác,[10] thỉnh thoảng cách đó hơn 200 km.[13]

Những đảo cát nhiệt đới là nơi chim đậu lại và sinh sản nhưng có thể bị các hoạt động của con người gây xáo trộn.

Một con nhàn mào trống sẽ thiết lập một lãnh địa nhỏ để chuẩn bị làm tổ và sẽ mổ bất cứ con nhàn nào dám tiến vào lãnh địa của nó. Nếu kẻ xâm nhập là một con trống khác thì kẻ xâm nhập này cũng đáp trả đòn tấn công và thường là sẽ bị chủ nhân lãnh địa đẩy lùi một cách rất mãnh liệt. Nếu kẻ xâm nhập là một con mái thì nó sẽ phản ứng thụ động lại sự hung hăng của chim trống, cho phép chim trống có thời gian nhận ra giới tính của nó và khởi động màn trình diễn (ngẩng đầu và cúi chào) để cùng nhau cặp đôi. Nhàn mào còn tặng cá như một phần của nghi lễ tỏ tình: một con chim bay vòng quanh sân chim với con cá trong mỏ và kêu lớn; con chim còn lại có thể cũng bay theo nhưng cuối cùng chúng sẽ đậu lại và trao nhau món quà.[23]

Một cá thể nhàn mào với bộ lông thời kì sinh sản tại New South Wales, Úc.

Tổ chim thực chất là một chỗ cát nông được đào trên một nền đất rộng và phẳng, có khi là nền dốc. Thường thì chim không lót gì vào tổ này nhưng thỉnh thoảng có đá hoặc "xương" của mực nang. Nhàn mào đẻ một (thỉnh thoảng là hai) quả trứng vào tổ rồi cả chim trống và mái cùng ấp trứng trong vòng 25-30 ngày đến khi trứng nở.[9] Trứng có màu kem với những sọc hơi đen.[24] Tính đồng bộ hóa trong hành vi đẻ trứng[Ghi chú 4] biểu hiện trong phạm vi bầy sinh sản[25] và còn rõ hơn nữa trong phạm vi các bầy nhỏ.[26] Chim cha mẹ không nhận diện được trứng của mình hay chim non mới nở nhưng có thể phân biệt được đâu là con mình khi chim non đạt hai ngày tuổi, tức là ngay trước khi chúng bắt đầu di chuyển ra khỏi tổ.[27] Chim non có màu sắc rất nhợt nhạt với các đốm màu đen; chúng có khả năng sống độc lập sau khi nở nhưng được chim cha mẹ ấp ủ và cho ăn. Chim non đủ lông đủ cánh sau 38-40 ngày nhưng sau khi rời khỏi sân chim thì chúng vẫn lệ thuộc vào cha mẹ cho đến khi chúng được khoảng bốn tháng tuổi.[9]

Một sân chim ở Rạn san hô Tubbataha, Philippines

Tại Nam Phi, nhàn mào đã thích nghi với việc sinh sản trên mái nhà, thỉnh thoảng cùng chỗ với "mòng biển vua" (Chroicocephalus hartlaubii). Vào năm 2000, nơi đây có 7,5% số cá thể nhàn sinh sản trên mái nhà.[28] Chim cũng tìm đến các đảo nhân tạo nằm trong các ruộng muối và hồ xử lý nước thải để sinh sản.[6]

Có rất ít loài ăn thịt săn đuổi nhàn mào trưởng thành, nhưng ở Namibia thì chim non thường bị loài mòng biển Larus dominicanus cướp thức ăn. Người ta còn quan sát thấy Larus dominicanus, Chroicocephalus hartlaubii, mòng biển bạc và Threskiornis aethiopicus ăn trứng và nhàn mào non, đặc biệt là khi sân chim của những loài này bị quấy rầy.[6][29] Các bầy chim nằm ở vành ngoài của sân chim cũng dễ trở thành mục tiêu của kẻ ăn thịt hơn.[26] Ở Úc, nhàn mào bị chó và mèo ăn thịt; thỉnh thoảng chúng bị bắn hoặc đâm đầu vào xe hơi, dây cáp và cột đèn.[5]

Một phân loài nhàn mào (đã được đề cử) đang đậu cùng các con nhàn thuộc loài Thalasseus sandvicensis ở Nam Phi

Tác động của ngành đánh cá thương mại thể hiện cả mặt tích cực và tiêu cực lên nhàn mào. Tỉ lệ sống sót của chim chưa trưởng thành được cải thiện nếu có tàu cá thải bỏ thức ăn thừa, và số lượng cá thể nhàn mào ở vịnh Carpentaria tăng có thể là do sự phát triển của nghề cào tôm.[30] Ngược lại, nghề đánh cá bằng lưới kéo đã làm giảm lượng thức ăn của chim, và sự thay đổi khá lớn trong số lượng cá thể nhàn mào ở Tây Cape (Nam Phi) có liên quan mật thiết đến những thay đổi trong lượng cá ở biển do hoạt động khai thác cá bằng lưới kéo gây nên.[29] Nhàn mào có thể chết hay bị thương khi đâm vào hay bị mắc kẹt trong lưới; tuy vậy, có ít bằng chứng nói lên rằng số lượng toàn thể nhàn mào bị ảnh hưởng đáng kể bởi hoạt động đánh cá của con người.[9]

Một sự việc rắc rối bất thường đã xảy ra vào năm 2006 khi 103 con chim nhàn ngoài khơi ven đảo Robben, Nam Phi bị bọt biển (sinh ra từ sự kết hợp của tác động sóng biển, chất nhầy tảo bẹthực vật phiêu sinh) làm tê liệt khả năng vận động. Sau khi chữa trị, 90% số chim đã đủ khỏe mạnh để được thả ra.[31]

Kiếm ăn

Cá mòi là thức ăn phổ biến của nhàn mào.Nhàn mào đang ngậm một con cá thuộc loài Hyporhamphus melanochir

Cá là thức ăn chủ yếu của nhàn mào, chiếm gần 90% tổng lượng thức ăn của chúng. Số còn lại là động vật chân đầu, động vật giáp xáccôn trùng.[9] Một số động vật có xương sống đôi khi cũng là thức ăn của chim, ví dụ nhông (Agamidae) và đồi mồi dứa mới nở.[30]

Cá bị thải bỏ từ các tàu đánh bắt tôm có thể là thức ăn cho nhàn mào

Nhàn mào kiếm ăn chủ yếu ở biển bằng cách lao vào nước và lặn xuống độ sâu tối đa là 1 m hay trầm mình từ mặt biển. Chim có thể kiếm ăn trong phạm vi 10 km từ đất liền trong mùa sinh sản. Con mồi có chiều dài từ 7–138 mm và cân nặng tối đa 30 g. Nhàn mào thường ăn những loài cá sống gần mặt nước như cá trổngcá mòi nhưng chúng cũng ăn những động vật đáy do con người thải bỏ từ tàu đánh cá. Loài chim này cũng chủ động bám theo tàu cá, dù cho đó là vào ban đêm; trong mùa đánh cá, số thức ăn chim kiếm được từ những loại hải sản do con người thải bỏ có thể chiếm tới 70% khẩu phần ăn của chúng.[30] Các tàu đánh bắt tôm mang lại lợi ích nhiều nhất về mặt thức ăn cho nhàn mào do tôm thường chỉ chiếm 10-20% sản lượng đánh bắt lên trong khi số còn lại (chủ yếu là các loài cá như cá sơncá bống trắng) đều bị con người thải bỏ.[30]

Một nghiên cứu tại vùng biển rạn san hô Great Barrier (nơi số lượng nhàn mào tăng gấp mười lần, có thể là nhờ thức ăn thải bỏ từ tàu cá) đã chỉ ra rằng "nhàn mào nhỏ" và Onychoprion fuscatus đã rời khỏi khu vực và chuyển đến sinh sản tại một vùng cấm đánh cá thuộc rạn san hô này. Có khả năng là số lượng nhàn mào đông đúc đã gây ảnh hưởng lên các loài khác thông qua sự cạnh tranh về thức ăn và địa điểm làm tổ.[32]

Nhàn mào có các giọt dầu màu đỏ trong các tế bào nón của võng mạc mắt. Đặc điểm này giúp cải thiện độ tương phản và làm tăng thêm thị lực tầm xa, đặc biệt là trong điều kiện không khí mù sương.[33] Trong các giọt dầu tế bào nón của những loài chim phải nhìn qua mặt phân giới không khí/nước - như nhàn và mòng bể - có các sắc tố carotenoid nhuộm màu mạnh hơn so với các loài chim khác.[34] Thị lực được cải thiện giúp chim nhàn định vị các đàn cá, mặc dù người ta vẫn chưa chắc chắn được là chúng nhìn vào đám thực vật phiêu sinh là mồi của cá, hay chúng quan sát các con chim nhàn khác đang lao xuống kiếm ăn.[35] Một điểm nữa là mắt chim nhàn không nhạy với tia cực tím - một đặc điểm thích nghi phù hợp với những loài kiếm ăn trên cạn như mòng bể hơn.[36]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Nhàn mào http://www.int-res.com/articles/meps/127/m127p001.... http://www.itis.gov/servlet/SingleRpt/SingleRpt?se... http://id.loc.gov/authorities/subjects/sh85057021 http://www.ncbi.nlm.nih.gov/Taxonomy/Browser/wwwta... //www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC1617148 //www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/15804415 //www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/17148194 http://vncreatures.net/chitiet.php?page=1&loai=1&I... http://vncreatures.net/chitiet.php?page=1&loai=1&I... http://bird.org.nz/nzrbn.htm